“Thằng Mõ” làng Nọ

Hồi ấy, làng Nọ chưa có loa phóng thanh. Chẳng điện, chẳng mạng, đến đèn dầu còn phải dành dụm từng giọt. Nhưng cả làng vẫn biết tường tận chuyện họp hành, khao vọng, cúng đình, cháy bếp, mất trâu… nhờ một người duy nhất: Thằng Mõ.

img-3681-1752769893.jpeg
Một ông Mõ ở miền thượng du Bắc Kỳ năm 1902. Nguồn: Internet

Không ai nhớ tên thật của nó. Từ bé đã vậy, nó là con một người đàn bà ngụ cư, dắt về làng trú nhờ sau một trận lụt miền xuôi. Bà mẹ chết khi nó còn nhỏ, để lại cho làng một đứa gầy nhẳng, đen nhẻm, mắt lanh như con sóc. Cụ nhất trong làng chỉ tay bảo: “Nuôi nó làm mõ đi. Nó nhanh chân, cái miệng lanh chanh, hợp đấy.”

Vậy là thành “Thằng Mõ”.

Nó không có mõ gỗ hình cá như trong chùa. Cụ Chánh cho nó một khúc tre già. Mỗi lần có việc, nó vác khúc tre đi rao, dùng thẻ tre đập vào, “cốc! cốc! cốc!” vang xa tận cuối làng. Rồi cái giọng rao rặt chất Bắc bộ vang lên, dứt khoát mà có phần hài hước:

“Chiềng làng chiềng chạ,

Thượng hạ Tây Đông,

Nhà nào mất trâu

Ra đình nhận lại!”


Hoặc có khi:

 

“Ra đình mà họp!

Không đến đủ mặt,

Trừ lúa đầu năm!”

Bọn trẻ con nghe tiếng mõ là chạy theo hò reo. Người lớn vừa nghe vừa cười. Có lần, nó đứng giữa ngã ba làng, rao liền mấy câu:

“Con gái phú ông,

Tên là Mầu Thị,

Tư tình ngoại ý,

Mãn nguyệt có thai…”

Không biết nó học đâu ra mấy câu này? Cả làng cười ồ. Nhưng tối đó, cụ Từ gọi nó ra đình, mắng một trận nên thân: “Truyền tin thì truyền cho đúng. Mày rao thế, vạ miệng chết đấy con ạ.”

Từ đó, nó bớt nghịch mồm. Nhưng người ta vẫn yêu cái chất hóm hỉnh của nó, cái chất chỉ có ở những người sống gần với ruộng đồng, gần với cái thật, cái nghèo mà không mất đi sự tỉnh táo của dân quê.

Thằng Mõ không chỉ rao tin. Nó quét đình, châm đèn, bưng nước, điếu đóm cho các cụ kỳ mục. Đám cưới, đám tang, nó có mặt. Có người bảo: “Nó sống bằng mồm, nhưng giữ nếp cả làng bằng cái mõ đấy.”

Nhiều năm sau, Mõ đã già. Một ngày nọ, Lý trưởng cho thay mõ. Một thằng mõ mới, trẻ hơn, khỏe hơn, vai u thịt bắp, tiếng mõ vang hơn. Dân làng thoạt đầu còn ngạc nhiên, rồi cũng quen. Cái bóng lưng còng, mái đầu điểm bạc, tiếng rao nửa tỉnh nửa mê của ông Mõ già dần chìm vào lãng quên như khói sương ban sớm.

Không nhà, không ruộng, Mõ bị gạt ra khỏi đình đám, dựng tạm túp lều rách ở cuối làng, gần bãi tha ma. Ngày ngày đi làm thuê kiếm miếng ăn, ai thuê gì làm nấy. Mùa đông năm ấy lạnh cắt da, Mõ đổ bệnh, rồi chết vì đói rét. Không ai hay. Chỉ đến khi mùi xộc lên, người ta mới phát hiện. Trong vòng tay co quắp của Mõ, vẫn ôm khư khư cái mõ tre cũ, từng gõ vang cả làng một thuở.

Xác Mõ được chôn vội ở mép bãi đất hoang, không kèn, không trống. Lúc hạ huyệt, người ta gõ ba tiếng mõ cuối cùng:

“Cốc… cốc… cốc…”

Rồi chôn chiếc mõ theo cùng.

Câu chuyện về “thằng Mõ” vẫn được truyền tai nhau qua bao thế hệ người dân làng Nọ, như một lời nhắc nhở về thân phận con người giữa dòng xoáy thời cuộc.

Các cụ trong làng kể lại, trong đêm muộn, người làng vẫn nghe văng vẳng ba tiếng cốc… cốc… cốc…vọng về từ cuối làng, như tiếng vọng của một linh hồn từng gõ lên lòng người bằng tất cả sự tận tụy và lặng thầm.